Lối sống và văn hóa truyền thống Người_Nanai

Bản đồ năm 1734 của người Pháp chỉ ra người Yupi (Ngư bì, "da cá") trên cả hai bờ sông Ussuri và Amur ở phía nam cửa Dondon (Tondon), và người Ketching xa hơn nữa xuôi theo dòng sông Amur (nơi người Nanai, UlchNivkh hiện nay sinh sống)

Một trong số những mô tả đầu tiên về người Nanai trong các ngôn ngữ châu Âu là thuộc về các nhà địa lý kiêm tu sĩ dòng Tên người Pháp đã du hành dọc theo sông Ussury và Amur năm 1709. Theo các mô tả này, người bản địa sống dọc sông Ussury và dọc sông Amur phía trên cửa sông Dondon (đổ vào sông Amur tại nơi giữa KhabarovskKomsomolsk-on-Amur ngày nay) được biết đến như là Yupi Tartar (người Tartar da cá, xem đoạn kinh tế dưới đây), trong khi tên gọi của dân tộc sinh sống ven sông Dondon và đoạn sông Amur phía dưới Dondon được các tu sĩ dòng tên phiên âm sang tiếng Pháp thành Ketching.[7].

Tên gọi sau có thể là phiên âm tiếng Pháp của tên tự gọi đã nêu (xem #Tên tự gọi trên đây) của người Nanai vùng hạ du sông Amur, [xədʑən], cũng dược dùng để chỉ dân tộc Ulch có quan hệ họ hàng gần[8].

Theo các tu sĩ dòng Tên, ngôn ngữ của người "Yupi" dường như ở vị trí trung gian giữa tiếng Mãn và ngôn ngữ của người "Ketching"; giao tiếp ở một mức độ nào đó giữa người Yupi và người Ketching là có thể.[9]

Kinh tế

Theo miêu tả của các lữ khách ban đầu (như các nhà địa lý dòng Tên trên sông Ussury năm 1709), kinh tế của người dân sống tại đây (ngày nay có thể phân loại như người Nanai, hoặc cũng có thể là người Udegeits) dựa trên đánh bắt cá. Người dân sống trong các làng dọc hai bờ sông Ussuri, và dành toàn bộ thời gian mùa hè của mình vào đánh bắt cá, ăn cá tươi trong mùa hè (cụ thể họ đặc biệt thích cá tầm), và phơi cá khô để ăn trong mùa đông. Cá cũng có thể sử dụng làm thức ăn cho một vài loại gia súc mà họ có (làm cho mùi vị thịt lợn của họ trở thành khó ăn đối với các lữ khách với khẩu vị châu Âu).[10]

Bản đồ năm 1682 của người Ý, chỉ ra "regno di Nivche/regno di Nivchan" (vương quốc Nivche/Nivchan, nghĩa là Nữ Chân) hoặc "Kin (Kim) Tartar", cũng như vùng đất của "Tartari di Yupy" - nghĩa là "Tartar da cá" (Nanai và các bộ lạc liên quan) xa hơn về phía đông.

Quần áo truyền thống của họ làm từ da cá. Các tấm da cá này được phơi khô. Khi khô, chúng được người ta đập nện nhiều lần bằng vồ để cho bề mặt hoàn toàn nhẵn nhụi. Cuối cùng người ta khâu các tấm da này lại với nhau.[10] Những con cá được chọn cho mục đích này có cân nặng trên 50 kg.[11] Trong quá khứ, thực tiễn khác lạ này đã làm cho người ta gọi người Nanai là "Tartar da cá" (tiếng Trung: 鱼皮鞑子, Yupi Dazi, Hán-Việt: Ngư bì Thát tử). Tên gọi này cũng áp dụng, tổng quát hơn, cho các nhóm thổ dân khác tại lưu vực hạ du sông Sungari và Amur.[12]

Nông nghiệp đến với vùng đất của người Nanai một cách chậm chạp. Trên thực tế loại cây trồng duy nhất do các làng của người Yupi trên bờ sông Ussuri gieo trồng vào năm 1709 chỉ là thuốc lá.[10]

Tôn giáo

"Idol poles" (Cột vật tổ (totem) của người Nanai ("Goldy"). Do Richard Maack vẽ, khoảng 1854-1860

Người Nanai chủ yếu theo đạo Shaman, với sự sùng kính lớn dành cho gấu (Doonta) và hổ (Amba). Họ cho rằng các pháp sư có quyền năng xua đuổi tà ma bằng cách cầu khấn các vị thần linh. Trong các thế kỷ qua, họ từng sùng bái các vị thần mặt trời, mặt trăng, núi, nước và cây. Theo niềm tin của họ, vùng đất này từng có thời bằng phẳng cho tới khi những con rắn lớn đục khoét các thung lũng sông. Họ cho rằng vạn vật trong vũ trụ đều có linh khí riêng và rằng các linh khí này lang thang trong thế giới. Trong tín ngưỡng Nanai, các vật thể bất động thường được nhân cách hóa. Chẳng hạn, lửa được nhân cách hóa thành bà lão mà người Nanai gọi là Fadzya Mama. Những đứa trẻ không được phép nhảy trên lửa, do chúng có thể làm Fadzya Mama giật mình, và những người đàn ông luôn luôn giữ lịch sự khi có lửa.

Các pháp sư Nanai, giống như các dân tộc Tungus khác trong khu vực, có quần áo riêng đặc trưng, bao gồm quần rộng và áo vét; thắt lưng da với tua tòn ten bằng kim loại hình nón; các găng tay hở ngón với các hình rắn, thằn lằn hay ếch nhái; và mũ với các gạc sừng hay lông gấu, sói, cáo gắn vào. Các mảnh gương của người Trung Quốc đôi khi cũng được dùng kèm với bộ quần áo này.

Người chết thường được chôn cất trong đất với ngoại lệ là những đứa trẻ chết trước khi đủ một ngày tuổi; trong trường hợp này thi thể đứa trẻ được bọc trong áo hay vỏ cây bạch dương và chôn cất trên các cành cây như một hình thức của "phong táng". Nhiều người Nanai cũng theo Phật giáo Tây Tạng.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Người_Nanai http://www.chinadaily.com.cn/english/doc/2005-06/0... http://english.cri.cn/4026/2008/07/10/1361s379104.... http://www.ethnichistory.cn/html/mzwh/minzujianjie... http://www.stats.gov.cn/was40/gjtjj_detail.jsp?cha... http://www.ethnic-china.com/Hezhe/hezheyimakan.htm http://www.ethnologue.com/14/show_language.asp?cod... http://books.google.com/books?id=1pcsAAAAYAAJ http://pandora.cii.wwu.edu/vajda/ea210/maritime.ht... http://www.eki.ee/books/redbook/nanais.shtml http://www.erm.ee/?node=191